10/8/09

ĐTM ở Việt Nam - 15 năm nhìn lại

Cuộc tọa đàm “ĐTM ở Việt Nam: Từ pháp luật đến thực tiễn” do Trung tâm Con người và Thiên nhiên phối hợp với Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam tổ chức (Ảnh: ThienNhien.Net)
ThienNhien.Net – Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) là công cụ pháp lý và kỹ thuật quan trọng để xem xét, dự báo tác động môi trường, xã hội của các dự án, hoạt động phát triển; cung cấp luận cứ khoa học cho chính quyền, cơ quan quản lý chuyên ngành và doanh nghiệp cân nhắc trong quá trình quyết định đầu tư và phê duyệt dự án. Các yêu cầu về ĐTM đã được luật hóa và quy định bởi Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam từ năm 1993. Hơn 15 năm thực hiện công tác ĐTM đã giúp Chính phủ Việt Nam từng bước cụ thể hóa và cải thiện hệ thống quy định ĐTM, tạo lập và phát triển năng lực đội ngũ thực hiện ĐTM; nhờ DTM nhiều dự án có nguy cơ, rủi ro cao đối với môi trường và xã hội đã buộc phải chấm dứt hoặc điều chỉnh lại. Tuy nhiên, hoạt động ĐTM ở Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều bất cập và yếu kém về cả chất lượng cũng như việc thực thi theo quy định pháp luật.
Nhìn chung, ĐTM vẫn bị hành xử như một thủ tục nhằm hợp thức hóa quá trình thẩm định và phê duyệt các dự án, hoạt động đầu tư. Bản thân quy định luật pháp hiện hành về ĐTM cũng chưa chặt chẽ. Nhiều hậu quả nghiêm trọng về môi trường và xã hội đã xảy ra do các yêu cầu về ĐTM bị làm ngơ hoặc không được thực hiện nghiêm chỉnh. Bài viết này tổng hợp và đưa ra những thảo luận về pháp luật và bài học thực tiễn của việc thực hiện ĐTM ở Việt Nam dựa trên ý kiến của các nhà khoa học và chuyên gia tại cuộc tọa đàm “ĐTM ở Việt Nam: Từ pháp luật đến thực tiễn” do Trung tâm Con người và Thiên nhiên phối hợp với Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam tổ chức ngày 27/11/2008. Hệ thống pháp luật về ĐTM của Việt Nam Quy định ĐTM của Việt Nam lần đầu tiên được được đưa ra trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 1993, và đến nay đã có những điều chỉnh đáng kể. Các chế tài về ĐTM lần đầu tiên được quy định tại Điều 17 và 18 của Luật BVMT ban hành ngày 27/12/1993, và tiếp đó là Nghị định 175/CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật BVMT 1993. Các quy định này yêu cầu tất cả các dự án trong nước và đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đều là đối tượng phải thực hiện ĐTM. Các dự án đã đi vào hoạt động cũng cần lập báo cáo đánh giá tác động dưới dạng "kiểm toán môi trường". Luật BVMT sửa đổi ban hành ngày 29/11/2005 đã dành riêng một chương quy định về công tác đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường. Nếu như bước tiến hành báo cáo ĐTM sơ bộ được coi là bắt buộc đối với các dự án trước khi có Luật BVMT 2005, thì sau khi luật này có hiệu lực, bước này đã bị xoá bỏ. Giai đoạn từ năm 1994 đến trước khi Luật BVMT 2005 được ban hành là giai đoạn "vừa làm - vừa học - vừa rút kinh nghiệm" của Việt Nam (1). Đến năm 2008, một bảng danh mục các đối tượng gồm 162 loại dự án khác nhau phải lập báo cáo ĐTM đã được quy định tại Nghị định 21/2008/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 28/2/2008. Các dự án thuộc danh mục này sẽ phải thực hiện báo cáo ĐTM chi tiết; nếu không chỉ cần thực hiện cam kết BVMT. Đối tượng của quy định "ĐTM bổ sung" là các dự án mở rộng hoặc thay đổi công nghệ của các cơ sở đang sản xuất. Khái niệm này đã thay thế cho dạng báo cáo ĐTM của các cơ sở đang hoạt động trước đây. Lực lượng tham gia thực hiện ĐTM Số lượng những người tham gia lập báo cáo ĐTM đã tăng nhanh một cách tự phát, đáp ứng nhu cầu “thị trường” trong bối cảnh các hoạt động đầu tư nở rộ trên toàn quốc. Đội ngũ chuyên gia, tổ chức và dịch vụ tư vấn ĐTM trong và ngoài nhà nước đều dễ dàng tiếp cận. Gần 10 năm trước, hầu hết các dự án lớn đầu tư vào Việt Nam đều phải thuê chuyên gia nước ngoài thực hiện báo cáo ĐTM. Đến thời điểm hiện nay, rất nhiều cơ quan trong nước đã có thể đảm nhiệm được vai trò này và đưa ra nhiều báo cáo có chất lượng tốt (2). Tuy nhiên, yêu cầu về năng lực đảm bảo thực hiện ĐTM của lực lượng này vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có chế tài pháp lý nào ràng buộc. Về việc này, giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện Hạt nhân Đà Lạt, đã từng đề nghị "cần có một chứng chỉ bắt buộc đối với những cán bộ thực hiện công tác ĐTM ở Việt Nam". Cán bộ thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM ở cấp trung ương thuộc Vụ Thẩm định (Bộ Tài nguyên - Môi trường; nay trực thuộc Tổng Cục Môi trường, Bộ TN-MT) và Bộ trưởng Bộ TN-MT chịu trách nhiệm phê duyệt. Ở cấp địa phương, Phòng Thẩm định thuộc Sở TN-MT và Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm phê duyệt báo cáo ĐTM. Từ năm 1994 đến năm 2004, hơn 800 báo cáo ĐTM của các dự án và cơ sở đang hoạt động đã được thẩm định và phê duyệt ở cấp trung ương; gần 26.000 báo cáo ĐTM và bản đăng ký đạt Tiêu chuẩn Môi trường đã được thẩm định và phê duyệt ở cấp địa phương. Theo đánh giá của các chuyên gia, năng lực thẩm định báo cáo ĐTM đã được nâng cao đáng kể do có nhiều cán bộ được đào tạo, tập huấn ở trong nước và nước ngoài cũng như khả năng "học thông qua hành" từ thực tiễn công việc. Đến nay, lực lượng cán bộ này đã có thể tự đảm đương được việc tổ chức thẩm định các báo cáo ĐTM theo mức độ được phân cấp (3). Tuy nhiên, ở cấp tỉnh, đội ngũ cán bộ thẩm định ĐTM vẫn còn yếu và thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu đa dạng về kiến thức khoa học môi trường có liên quan đến nhiều ngành khác nhau. Báo cáo ĐTM có phải là "đồ trang sức” cho dự án? Bản chất của công tác ĐTM là tìm hiểu, dự báo các tác động môi trường và tác động xã hội tiêu cực, đề xuất giải pháp ngăn ngừa, hạn chế các tác động này khi dự án được thực hiện, đảm bảo dự án không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn thúc đẩy phát triển an sinh xã hội và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, một bộ phận các nhà quản lý và chủ đầu tư chưa nhận thức được ý nghĩa của công tác này. Họ thường coi yêu cầu lập báo cáo ĐTM như là một thủ tục trong quá trình chuẩn bị hoặc thực hiện dự án. Thậm chí nhiều người còn “đổ lỗi” cho ĐTM như một lực cản của hoạt động phát triển sản xuất và đầu tư. Vì vậy, khi được yêu cầu lập báo cáo ĐTM, họ chỉ làm lấy lệ, chú trọng làm cho đủ thủ tục để dự án được thông qua chứ không quan tâm đến những tác động và nguy cơ môi trường thực sự. Phong trào cấp phép ồ ạt cho các dự án xây dựng sân golf ở Việt Nam trong những năm qua là một minh chứng điển hình. Nếu các dự án này tuân thủ thực hiện ĐTM nghiêm túc và chất lượng thì sẽ không có những xung đột xảy ra giữa các chủ dự án và cộng đồng địa phương do tranh chấp quyền sở hữu, tiếp cận, sử dụng tài nguyên đất, rừng và nguồn nước (4).

Một số dựa án sân gôn gây nên bất bình trong dư luận cộng đồng một phần do quy trình ĐTM không được thực hiện nghiêm túc (Ảnh: ThienNhien.Net) Bên cạnh đó, hiện tượng các chuyên gia tư vấn thường được “khoán” làm một báo cáo ĐTM cho “phù hợp với yêu cầu của pháp luật” là rất phổ biến ở các địa phương. Vì vậy, việc tuân thủ quy trình và yêu cầu chất lượng báo cáo ĐTM thường bị làm ngơ hoặc xem nhẹ. Các phương án giảm thiểu tác động thì hoặc là quá sơ sài, hoặc thiếu tính khả thi, hoặc chỉ là lời hứa hẹn không có cơ sở” (5). Ông Phạm Quang Tú, Viện trưởng Viện Tư vấn Phát triển, nhấn mạnh "khía cạnh xã hội của báo cáo ĐTM hiện nay rất nhạt nhòa” và dẫn chứng bằng các báo cáo ĐTM của dự án xây dựng nhà máy thủy điện Hương Sơn và dự án khai thác mỏ ti-tan ở tỉnh Hà Tĩnh. Nội dung các báo cáo ĐTM cho thấy phần đánh giá tác động xã hội thường quá ngắn gọn, rất chung chung, thiếu cơ sở khoa học, và ít thuyết phục. Ví dụ, phần đánh giá tác động xã hội trong báo cáo ĐTM cuả dự án ti-tan Hà Tĩnh chỉ có ½ trang; dự án thủy điện Hương Sơn có 01 trang. Các đánh giá được trình bày chung chung, không có chiều sâu, và dường như chỉ được “xào xáo” lại từ các báo cáo DTM khác". Báo cáo ĐTM của dự án thủy điện Lai Châu - một trong ba công trình thuỷ điện lớn trên sông Đà với công suất thiết kế là 1.200MW, toàn bộ nội dung dày tới 200 trang, nhưng phần đánh giá tác động kinh tế - xã hội chỉ cũng chiếm 2 trang (1% toàn bộ nội dung). Rõ ràng, yêu cầu đánh giá tác động xã hội đã không được đề cao trong yêu cầu lập báo cáo ĐTM. GS.TS. Trần Hiếu Nhuệ, một chuyên gia trong lĩnh vực ĐTM của Đại học Xây dựng Hà Nội cũng chia sẻ nhận xét trên khi đánh giá khoảng 20% số báo cáo ĐTM ông tham gia thẩm định (cho đến năm 2003) được copy từ các bản báo cáo khác. Thậm chí nhiều trường hợp chủ đầu tư còn “quên” thay đổi địa danh cho phù hợp với dự án mới (6). Bên cạnh đó, có những báo cáo đã cố tình làm ngơ hoặc đánh giá thấp giá trị, vai trò của môi trường và hệ sinh thái ở nơi dự án đề xuất can thiệp. Ví dụ, VQG Tam Đảo đã được quy hoạch và khẳng định là "khu rừng đa dạng sinh học cao với rừng lùn thường xanh điển hình". Tuy nhiên, báo cáo hiện trạng môi trường phục vụ cho dự án Tam Đảo II (xây dựng khu giải trí do nước ngoài đầu tư) ở vùng lõi VQG đã đánh giá khu vực là "nghèo đa dạng sinh học, không có giá trị bảo tồn". Tương tự, báo cáo ĐTM cho đề xuất dự án xây dựng thủy điện Rào Àn 1 và Rào Àn 2 trong vùng rừng nguyên sinh kề VQG Vũ Quang ở xã Sơn Kim (Hà Tĩnh) đã không đề cập đến tác động của dự án đối với các loài thú lớn bị đe dọa có giá trị bảo tồn trên toàn cầu như Sao La, Voi. Ai quyết định chất lượng báo cáo? Theo thông lệ quốc tế, chi phí để lập một báo cáo ĐTM thường chiếm từ 1 đến 3% so với tổng kinh phí của một dự án. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, ở Việt Nam có những dự án đầu tư trị giá đến hàng chục tỷ đồng, nhưng chi phí thực hiện ĐTM thậm chí chỉ là vài chục triệu đồng. Đây là điều không hợp lý vì với mức chi như vậy khó có thể đáp ứng một loạt các yêu cầu khảo sát và đo đạc nghiêm túc và cập nhật các chỉ tiêu môi trường ở các khu vực dự án cụ thể. Chi phí không đủ nhưng báo cáo vẫn được lập xong là cơ sở để nghi vấn độ tin cậy về thông tin và chất lượng báo cáo. Bên cạnh đó, chủ đầu tư luôn đặt ra mục đích cao nhất là được các cơ quan có thẩm quyền chấp thuận cho thực hiện dự án, vì thế khó có thể nói rằng họ chi tiền thuê cá nhân hay tổ chức tư vấn lập báo cáo ĐTM để dẫn tới quyết định dự án bị trì hoãn hoặc chấm dứt ngoài mong muốn của họ.Tồn tại nói trên là một sự thật khách quan do chính các quy định luật pháp ràng buộc (chủ đầu tư phải trực tiếp chi tiền lập báo cáo ĐTM). Những phản ánh trên, mặc dù không phải đại diện cho tất cả các trường hợp, nhưng cũng là tình huống điển hình giúp nhìn nhận tốt hơn về những khiếm khuyết của chính sách ĐTM hiện nay. Theo các chuyên gia phản biện, bên cạnh năng lực và kiến thức, người lập báo cáo ĐTM và chủ dự án cần phải ý thức được lương tâm, trách nhiệm của mình về bảo vệ môi trường và an sinh xã hội của người dân hiện tại và mai sau. Quy định luật pháp có thể không ràng buộc được lương tâm của người lập báo cáo ĐTM, nhưng các chế tài về cam kết chất lượng và sự trung thực của báo cáo ĐTM cần được áp dụng triệt để. Thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM được pháp luật phân cấp cho Bộ TN-MT (cấp trung ương) và UBND (cấp địa phương). Theo các chuyên gia, những ưu tiên về dự án đầu tư và phát triển kinh tế của cả Chính phủ, ngành và đặc biệt là các tỉnh, thành đã đặt các cơ quan (và cá nhân) chịu trách nhiệm thẩm định báo cáo ĐTM vào thế “không được làm trái ý cấp trên”, nhất là các dự án đầu tư quy mô lớn của nước ngoài nhưng tiềm ẩn rủi ro cao về môi trường như xây dựng thủy điện, cảng biển, khai thác khoáng sản, sửa chữa tàu biển, tái chế rác thải... Có thể nói, tính độc lập, phản biện và chịu trách nhiệm trước pháp luật, thể hiện qua trách nhiệm và quyền hạn của hội đồng thẩm định báo cáo ĐTM chưa được quy định rõ ràng. Vì thế, có những ý kiến băn khoăn rằng quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM bị thiên lệch để phục vụ lợi ích của các nhà đầu tư hơn là lợi ích chung của cộng đồng và xã hội. Các ý kiến đánh giá của hội đồng thẩm định hầu như chỉ mang tính chất tư vấn, tham khảo trong quá trình ra quyết định cuối cùng. Nghĩa là, quyết định thông qua báo cáo ĐTM được định đoạt bởi hội đồng phê duyệt chứ không thuộc thẩm quyền của hội đồng thẩm định. Như vậy, trong trường hợp dự án được thông qua và đi vào hoạt động gây ra những tác động và suy thoái môi trường sẽ khó quy trách nhiệm cho các bên liên quan. Bất cập này hiện cũng chưa được quy định rõ ràng trong hệ thống văn bản QPPL về ĐTM mà mới chỉ dừng lại ở việc quy định trách nhiệm kiểm tra giám sát thực hiện nội dung của báo cáo ĐTM. Giám sát sau phê duyệt còn yếu kém Các cơ quan quản lý không có đủ nhân lực, trang thiết bị và thời gian để giám sát môi trường trong quá trình xây dựng và hoạt động của dự án. Họ cũng chưa có đủ quyền để cưỡng chế việc thực thi các yêu cầu được ghi trong quyết định phê chuẩn báo cáo ĐTM. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến vụ Công ty TNHH Vedan (Đồng Nai) trắng trợn vi phạm Luật BVMT - xả trái phép nước thải chưa qua xử lý xuống sông Thị Vải kéo dài liên tục trong 14 năm. Khi vụ việc bị lực lượng Cảnh sát Môi trường (CSMT) phát hiện và điều tra thì có tới 3 tội danh không xử phạt được do đã hết thời hạn xử phạt hành chính (quá 2 năm). Cả ba tội danh này đều liên quan đến báo cáo ĐTM bổ sung và cam kết bảo vệ môi trường.

Các sai phạm của công ty Vedan có liên quan đến báo cáo ĐTM bổ sung và cam kết bảo vệ môi trường. (Ảnh: Vietnamnet.vn)
Sự ra đời của lực lượng Cảnh sát Môi trường từ năm 2006 đã trợ giúp tích cực cho công tác thanh tra, giám sát thực hiện dự án và phát hiện những sai phạm về bảo vệ môi trường. Kết quả thanh tra cho thấy 100% cơ sở bị thanh tra không thực hiện giám sát môi trường định kỳ, hoặc không thực hiện đầy đủ nội dung giảm thiểu tác động môi trường (7). Tuy nhiên, hiện chưa có quy định pháp luật nào coi hoạt động của CSMT như một cơ quan điều tra chuyên trách, bên cạnh đó hoạt động thanh tra môi trường cũng chỉ được thực hiện khi có quyết định thanh tra. Chính những thiếu hụt liên quan đến quyền hạn của thanh tra và cảnh sát môi trường đã làm hạn chế hiệu lực hoạt động của họ. Một trong những hình thức giám sát sau phê duyệt khá hiệu quả là chế tài xử phạt vi phạm quy định ĐTM lại được cho là còn quá nhẹ. Cưỡng chế thi hành là mấu chốt cho việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh. Tuy nhiên, thực tế hình thức xử phạt hiện nay đối với hành vi vi phạm quy định ĐTM mới chỉ là xử phạt hành chính, với mức phạt từ 8-40 triệu đồng cho các lỗi vi phạm: không thực hiện đúng nội dung trong báo cáo ĐTM và không lập báo cáo ĐTM mà đã tiến hành triển khai dự án (Điều 9, Chương II, Nghị định 81/2006/NĐ-CP ngày 09/08/2006 về Xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường). Hình thức và mức độ xử phạt này là chưa thực sự thoả đáng và thiếu tính răn đe (9); đối với một dự án đầu tư hàng tỷ đồng thì mức xử phạt như vậy là quá nhẹ, dễ khuyến khích nhà đầu tư làm sai và chấp nhận bị xử phạt. Tiếng nói của cộng đồng trong quy trình ĐTM Yêu cầu tham vấn cộng đồng trong hoạt động ĐTM, thông tin minh bạch với cộng đồng về dự án và kết quả ĐTM đã được đề cập đến trong các văn bản pháp luật về ĐTM. Tuy nhiên các yêu cầu này vẫn chưa rõ ràng và chưa phải là quy định bắt buộc thực hiện. Theo các chuyên gia, có một số bất cập trong việc nhận thức về chủ thể cộng đồng – ai là cộng đồng? Khái niệm “cộng đồng” chưa được quy định rõ ràng, nên chuyên gia tư vấn ĐTM thường không hỏi ý kiến người dân mà lại hỏi cán bộ của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc hoặc Hội đồng Nhân dân của địa phương vì cho rằng đây là những tổ chức đại diện cho dân. TS. Vũ Quang, giảng viên Khoa Luật của Đại học Quốc gia Hà Nội bình luận: "Thông thường, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc là cơ quan đại diện cho nhân dân. Nhưng bản thân cơ quan này ít quan tâm đến lĩnh vực môi trường và hoạt động mang tính chất nhà nước nhiều hơn. Liệu tổ chức này có hoàn toàn phù hợp khi đại diện cho cộng đồng trong hội đồng thẩm định ĐTM?". Hơn nữa, đối với các hội và tổ chức xã hội dân sự - với vai trò là cầu nối giữa cộng đồng và các cơ quan chức năng chính phủ, song những quy định liên quan đến vai trò và quyền lợi tham gia của họ vào công tác ĐTM gần như chưa được đề cập đến trong các quy định pháp luật. Cũng chính vì không phải quy định bắt buộc, việc thông tin, tham vấn và lắng nghe ý kiến cộng đồng diễn ra ở các mức độ khác nhau tùy từng địa phương. Các thành phố lớn như Hà Nội, T.p. Hồ Chí Minh, công tác này được thực hiện khá nghiêm chỉnh; ở các vùng sâu, vùng xa còn nghèo nàn, lạc hậu, hoặc dân trí thấp thì hoạt động này hầu như không diễn ra, hoặc có thì cũng chỉ mang tính hình thức (8). Tuy nhiên, đối với những dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, công tác này lại được thực hiện rất nghiêm túc. Điển hình là Dự án nhiệt điện Phú Mỹ 2 tại Bà Rịa Vũng Tàu do WB hỗ trợ đã thực hiện rất tốt việc tổ chức các buổi họp báo với sự tham gia của các bên liên quan: chính quyền, sở, ngành, các tổ chức liên quan và các hộ dân nằm trong vùng dự án; trình bày minh bạch các thông tin chung liên quan đến dự án cũng như biện pháp giảm thiểu ô nhiễm. Nhận thức được tầm quan trọng của yêu cầu trên, tháng 12/2008, Bộ TN-MT đã ban hành Thông tư 05/2008/TT-BTNMT ngày 08/12/2008 về Hướng dẫn đánh giá tác động môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường, quy định rõ ràng các điều về tham vấn cộng đồng và cơ chế minh bạch thông tin. Lời kết Hơn 15 năm trôi qua kể từ khi có quy định đầu tiên về ĐTM ở Việt Nam, không thể phủ nhận những cố gắng và nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện đánh giá tác động môi trường. Từ quá trình hoàn thiện dần hệ thống văn bản QPPL đến phát triển đội ngũ và năng lực thực hiện ĐTM đã có những phát triển đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bản thân quy định luật pháp ĐTM vẫn còn nhiều lỗ hổng và bất cập, chưa ràng buộc được trách nhiệm pháp lý và yêu cầu tuân thủ chặt chẽ của chủ đầu tư, chính quyền địa phương, cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, cá nhân và tổ chức tư vấn ĐTM. Hệ thống pháp luật đầy đủ và nghiêm minh sẽ giúp Việt Nam loại trừ được những bất cập liên quan đến công tác ĐTM như hiện nay. Nhìn lại công tác ĐTM, người lạc quan có thể tạm hài lòng mà nói: “Chúng ta đã có nửa cốc nước rồi”, song người bi quan lại trăn trở: “Chúng ta mới có nửa cốc nước thôi”. Dù cách nói thế nào, thực tế vẫn là chúng ta chưa có được “một cốc nước đầy” và còn phải nỗ lực rất nhiều để có được điều đó.
THAM KHẢO (1, 9) World Bank, 2006. Environmental Impact Assessment: Regulation and Strategic Environmental Assessment Requirements _ Practice and Lesons Learned in East and Southeast Asia. http://www.worldbank.org/eapenvironment/sea-asia (2, 3, 8) Nguyễn Khắc Kinh, 2004. Báo cáo 10 năm thực hiện công tác đánh giá tác động môi trường. http://www.nea.gov.vn/tapchi/Toanvan/12-2k4-06.htm (4) Chuyên đề "Lạm phát sân golf" trên trang www.thiennhien.net (5, 6) Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 26, ngày 14/2/2003. Đánh giá môi trường... trên giấy. (7) Bộ Công an, 2008. Kỷ yếu hội thảo khoa học 2008: Phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trách nhiệm của chúng ta. (trang: 62 – 63).

18/3/09

Bài 2: Tiêu chuẩn Môi trường và Quy chuẩn kỹ thuật Môi trường

Theo khái niệm về Tiêu chuẩn và Quy chuẩn thì chúng ta thấy rằng, rõ ràng nhiều tiêu chuẩn về môi trường phải gọi là Quy chuẩn kỹ thuật môi trường thì mới đúng. Do vậy, ngày 28/02/2008 chính phủ đã ban hành Nghị định số 21/2008/NĐ-CP trong đó có sửa đổi, bổ sung điều 4 của Luật Môi trường như sau:.

"Điều 4. Quy định chuyển tiếp, rà soát, chuyển đổi tiêu chuẩn môi trường thành quy chuẩn kỹ thuật môi trường

1. Các tiêu chuẩn môi trường do Nhà nước công bố bắt buộc áp dụng được chuyển đổi thành quy chuẩn kỹ thuật môi trường theo quy định sau đây:
a) Tiêu chuẩn về chất lượng môi trường xung quanh chuyển đổi thành quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường xung quanh;
b) Tiêu chuẩn về chất thải được chuyển đổi thành quy chuẩn kỹ thuật về chất thải."

2. Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm rà soát, chuyển đổi các tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng môi trường xung quanh và tiêu chuẩn quốc gia về chất thải đã ban hành trước ngày 01 tháng 01 năm 2007 thành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng môi trường xung quanh và quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải.

3. Việc rà soát, chuyển đổi tiêu chuẩn về chất lượng môi trường xung quanh và tiêu chuẩn về chất thải thành quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường xung quanh và quy chuẩn kỹ thuật về chất thải được thực hiện theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật".

Vậy là từ nay, chúng ta phải làm quen với thuật ngữ mới “Quy chuẩn kỹ thuật môi trường” đồng thời trong các báo cáo cần trích dẫn rõ ràng đâu là QCVN và đâu là TCVN.


Nhiều bạn sẽ thắc mắc, vậy thì có nhưng Tiêu chuẩn môi trường nào? Chúng ta đã quen gọi các Quy chuẩn kỹ thuật môi trường là Tiêu chuẩn môi trường rồi. Bây giờ làm thế nào để phân biệt đâu là Tiêu chuẩn môi trường và đâu là Quy chuẩn kỹ thuật môi trường.

Nếu xem xét kỹ hai khái niệm trên và thực tế áp dụng chúng ta thấy rằng các Tiêu chuẩn môi trường là “không bắt buộc” áp dụng mà chỉ là khuyến khích “nên” áp dụng. Ví dụ như trong Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 bao gồm rất nhiều tiêu chuẩn về môi trường như TCVN ISO 14001: 2005; TCVN ISO 14004:2005 v.v.


Các quy trình, các phương pháp đo, xác định các thông số trong môi trường đất, nước, không khí , CTR là các Tiêu chuẩn Việt Nam. Ví dụ: Để xác định hàm lượng BOD5 trong nước chúng ta “nên” áp dụng TCVN 6001 : 1995; để xác định hàm lượng COD chúng ta “nên” áp dụng TCVN 6491 : 1999… Điều này có nghĩa khi muốn xác định hàm lượng BOD5 hoặc COD trong nước, chúng ta không bắt buộc phải áp dụng hai tiêu chuẩn trên mà có thể sử dụng phương pháp khác để xác định, miễn là phương pháp xác định đó phải được chứng nhận và đảm bảo độ tin cậy của kết quả phân tích.
.